Diễn biến Sự_biến_Thổ_Mộc_bảo

Dã Tiên ra quân

Mùa hè năm Kỉ Tị (1449), Dã Tiên tập kết binh mã các nơi chuẩn bị tiến xuống phía nam. Tin truyền đến Bắc Kinh, Minh Anh Tông cử sứ đến các Tuyên Phủ, Đại Đồng chỉnh đốn quân bị để đối phó. Tuy nhiên trong triều vẫn có người lén lút mang vũ khí đổi lấy ngựa tốt của Dã Tiên[9].

Tháng 7 năm Kỉ Tị, Dã Tiên khởi đại quân chia làm 4 đường đánh vào Đại Minh:

  • Đường phía đông do khả hãn Thoát Thoát Bất Hoa lĩnh quân Sở Bộ cùng Ngột Lương Cáp đánh Liêu Đông.
  • Đường phía tây do một biệt tướng tấn công Cam châu (Trường Dịch, Cam Túc).
  • Cánh quân đi đường trung bộ do A Thích Tri Viện thống lĩnh đánh Tuyên Phủ.
  • Cánh quân còn lại cũng đi đường trung bộ do Dã Tiên chỉ huy, tấn công Đại Đồng.

Ngày Kỉ Sửu (11) tháng 7 (30.7), quân Ngõa Lạt của Dã Tiên ồ ạt tấn công Đại Đồng. Tướng Ngô Hạo nhà Minh đụng độ Dã Tiên ở Miêu Nhi Trang bị đại bại và tử trận cùng 3 vạn quân sĩ. Minh Anh Tông điều Tỉnh Nguyên mang 4 vạn quân ra cứu viện cũng bị tiêu diệt hoàn toàn[9].

Anh Tông thân chinh

Tình thế nguy cấp, hoạn quan Vương Chấn ra sức cổ vũ Anh Tông thân chinh, noi theo gương các vua đời trước đánh Mông Cổ như Minh Thái TổMinh Thành Tổ. Minh Anh Tông quen hưởng lạc, chưa có kinh nghiệm gian khổ trận mạc nên nghĩ việc quân sự khá đơn giản và nghe theo lời Vương Chấn[10].

Các đại thần như Thượng thư bộ Binh là Khoáng Dã, Hữu Thị lang bộ Binh là Vu Khiêm, Thượng thư bộ Lại là Vương Trực,... thấy Anh Tông định thân chinh, vội vã dâng sớ can ngăn, nhưng Anh Tông nhất định không nghe. Ngày rằm tháng 7 năm đó, ông ban chiếu thân chinh, để em là Thành vương Chu Kỳ Ngọc trấn thủ kinh thành, Phò mã đô úy Tiêu Kính phụ chính[11].

Tình hình ngoài mặt trận càng ngày càng bất lợi cho quân Minh. Tại Tuyên Phủ, quân Ngõa Lạt bao vây quân Minh nhiều ngày, tuyệt nguồn nước. Tại Đại Đồng, các tướng trấn thủ là Tống Anh, Chu Miện, Thạch Hanh ra đánh đều thua nặng. Tống Anh và Chu Miện tử trận cùng nhiều quân sĩ, chỉ còn Thạch Hanh chạy trốn thoát thân.

Quyết sách của Vương Chấn

Ngày Giáp Ngọ (16) tháng 7 (4.8), Anh Tông lên đường ra mặt trận, mang theo 50 vạn tướng sĩ[1][2], đêm hôm đó đại quân đóng ở Ma Gia Lĩnh. Ngày Ất Mùi (17) tức 5.8, Minh Anh Tông đóng ở Long Hổ Đài, ngay trong đêm đó quân Minh đã cướp đoạt đồ của nhau, thành ra hỗn loạn.

Ngày Đinh Dậu (19) tức 7.8, Minh Anh Tông ra khỏi Cư Dung quan, ngày 20 ÂL đến Du Lâm, ngày 21 đến Hoài Lại, ngày 22 đến Lôi Gia Phạm, ngày Tân Sửu (23) tức 11.8 đến Tuyên Phủ. Những ngày hành quân liên tiếp có mưa gió, mọi người lo lắng, lương thảo không đủ, quân lĩnh đều mệt mỏi. Các quan xin Anh Tông ngừng hành quân vì quân sĩ kém hăng hái. Nhưng Anh Tông giao hết quyền cho Vương Chấn. Vương Chấn một mực muốn đánh, hạ lệnh ba quân bày trận[12].

Ngày 24 tháng 7 ÂL, Anh Tông đến núi Kê Minh, ngày 25 tới hẻm núi Vạn Toàn, ngày 26 tới phía tây thành Hoài An, ngày 27 đến phía tây thành Thiên Thành, ngày Bính Ngọ (28) tức 16.8 tới phía nam thành Dương Hòa. Quân sĩ trông thấy xác chết của quân nhà trong trận đánh trước đó với quân Ngõa Lạt, đều hoảng sợ.

Ngày 29 tháng 7 ÂL, Anh Tông tới trạm dịch Tu Lạc. Ngày Mậu Thân (1) tháng 8 tức 18.8 thì đại quân đến Đại Đồng. Lúc này Dã Tiên sau trận thắng đã chủ động rút về phía bắc chờ thời cơ. Vương Chấn muốn phát lệnh bắc tiến, thái giám thân tín là Quách Kính vội báo với Vương Chấn về tình hình bi đát ngoài mặt trận của quân Minh. Vương Chấn biết tin thật, bắt đầu lo lắng, bèn quyết định tuyên bố "chiến thắng" và vội vàng rút quân trở về[13].

Ngày 2 tháng 8 ÂL, đại quân bắt đầu rút về phía đông. Ban đầu, Vương Chấn định đi theo đường Tử Kinh quan là đường ngắn để về nhanh. Tuy nhiên, đây cũng là đường qua Úy châu[14] – quê Vương Chấn. Đi được 40 dặm, Vương Chấn chợt thay đổi ý định, sợ số quân lớn 50 vạn người sẽ giẫm nát lúa màu của trang trại nhà mình, do đó quyết định đổi hướng hành quân từ đường đông nam lên đường đông bắc, đi theo đường cũ từ Tuyên Phủ[15] về kinh. Việc thay đổi lộ trình vừa kéo dài thời gian, vừa gây ra nghi hoặc lớn trong các tướng sĩ[13].

Ngày 3 tháng 8 ÂL, Anh Tông tới Trích Trích Thủy, ngày 4 đến Phương Thành, Hồng châu, ngày 5 đến Bạch Đăng, ngày 6 đến phía tây thành Hoài An, ngày 7 đến Tuyên Phủ.

Quân Minh bại trận

Dã Tiên phát hiện quân Minh đi đường vòng mất thời gian, bèn dẫn quân từ phía bắc đón đường vây đánh. Thượng thư bộ Binh là Khoáng Dã đề nghị cử tinh binh đi sau cùng chặn hậu, còn xa giá phải nhanh chóng chạy vào cửa ải, nhưng Vương Chấn ra sức phản đối.

Ngày Đinh Tị (10) tháng 8 tức 27.8, Minh Anh Tông đến đông nam Tuyên Phủ, ngày 11 ÂL đến trạm Lôi Gia, ngày 12 sắp khởi hành thì nhận được tin báo quân Dã Tiên đã đuổi tới gần. Ngày Canh Thân (13) tháng 8 tức 30.8, Anh Tông bèn hạ lệnh đóng quân dựng trại một chỗ, cử anh em Ngô Khắc Trung và Ngô Khắc Cần ra chặn hậu. Dã Tiên đánh tới, giết chết anh em họ Ngô cùng toàn bộ quân Minh. Chập tối, Anh Tông nghe tin anh em họ Ngô tử trận, bèn cử Chu Dũng, Tiết Phụ mang 4 vạn quân ra đánh, nhưng gặp phục binh ở hẻm núi Diều Nhi, toàn quân bị diệt.

Anh Tông cùng đại quân tới pháo đài Thổ Mộc – Thổ Mộc bảo[16], phía đông cách thành Hoài Lai 20 dặm. Quần thần kiến nghị kéo đến bảo vệ Hoài Lai, nhưng Vương Chấn cho rằng còn hơn 1000 xe quân dụng chưa tới, hạ lệnh toàn quân đóng lại Thổ Mộc bảo để chờ. Quân Minh chọn chỗ cao đóng trại, nhưng không tìm được nguồn nước.

Dã Tiên nắm được điểm yếu trong việc đóng quân của nhà Minh, Dã Tiên nhanh chóng cho quân Ngõa Lạt cắt đứt đường tiếp tế nước của quân Minh với con sông nằm ở phía nam Thổ Mộc bảo. Kỵ binh Ngõa Lạt đuổi đến nơi, vây chặt quân Minh, cắt đường nước suối phía nam cách đó 15 dặm. Quân Minh đào đất sâu hơn 2 trượng vẫn không tìm được mạch nước. Quân Minh bị đói khát, phải kịch chiến suốt đêm ở phụ cận Ma Cốc khẩu. Quân Minh không tìm được đường ra, Vương Chấn cũng hoảng hốt không dám hạ lệnh khởi hành.

Ngày Nhâm Tuất (15) tháng 8 tức 1.9, đang lúc nguy cấp, có sứ giả của Dã Tiên tới xin nghị hòa, làm ra vẻ muốn rút quân. Anh Tông và Vương Chấn không biết là dối trá, bèn cho học sĩ Tào Nại thảo chiếu nghị hòa, rồi sai sứ sang gặp Dã Tiên. Vương Chấn cho rằng vòng vây đã được mở, vội hạ lệnh cho quân đi đến chỗ có gần nước. Trong lúc quân Minh tranh nhau đi lấy nước mất hàng lối thì quân Ngõa Lạt đột ngột tấn công. Mấy chục vạn quân Minh không kịp trở tay, không có đường chạy trốn nên tử trận, thây nằm ngổn ngang[5][17].

Trong lúc hỗn loạn, Vương Chấn bị hộ vệ tướng quân Phàn Trung nổi giận cầm gậy đánh chết. Sau đó Phàn Trung ra trận nhưng không chống nổi quân Ngõa Lạt và tử trận. Cùng bị giết với mấy chục vạn quân Minh có trên 50 quan văn võ là: Trương Phụ, Trần Doanh, Vương Tá (Thượng thư bộ Hộ), Khoáng Dã (Thượng thư bộ Binh), Tào Nại, Đình Tư, Vương Vĩnh Hòa, Đặng Khởi[5].

Anh Tông bị bắt

Minh Anh Tông biết không còn khả năng trốn chạy, bèn xuống ngựa chọn chỗ ngồi nhìn về hướng nam, chỉ còn 1 viên hoạn quan bên cạnh. Một kị binh Ngõa Lạt đuổi đến, muốn lấy bộ áo giáp quý giá trên người ông, nhưng ông cự tuyệt. Người lính Ngõa Lạt định giết ông thì anh người đó phi ngựa tới ngăn lại vì trông thấy phong cách bất thường của ông. Hai anh em người lính dẫn Minh Anh Tông đến gặp em Dã Tiên là Trại San vương[18].

Vừa gặp Trại San vương, Anh Tông cất tiếng hỏi thân thế. Trại San vương nghe khẩu khí ông rất kinh ngạc, vội báo cho Dã Tiên. Dã Tiên bèn sai hai thủ hạ là Cáp Ba quốc sư và Cáp Giả Lý Bình Chương từng đi sứ nhà Minh đến nhận mặt. Sau khi xác định rõ là vua nhà Minh, Dã Tiên rất mừng, cho rằng đã có cơ hội tiến vào trung nguyên như các vua nhà Nguyên trước đây[7].

Dã Tiên muốn lấy Anh Tông làm con tin, bèn mang ông tới giao cho doanh trại của Bá Nhan Thiếp Mục Nhi, dặn phải bảo vệ.